Thiết kế Lớp_tàu_khu_trục_O_và_P

Thiết kế lớp tàu khu trục O và P được dựa trên lườn tàu và hệ thống động lực của lớp J dẫn trước, nhưng vểnh lên nhiều hơn phía trước để sửa chữa chất lượng đi biển kém của lớp J. Các con tàu này sử dụng Đồng hồ kíp nổ định thời cho máy tính kiểm soát hỏa lực góc cao.[2]

Lớp O

Những chiếc lớp O được chế tạo thành hai nhóm, mỗi nhóm bốn chiếc. Nhóm thứ nhất trang bị pháo QF 4,7 in (120 mm) Mark IX trên các bệ góc thấp, vốn chỉ nâng được đến góc 40°, sau này được bổ sung thêm một khẩu pháo QF 4 in (100 mm) Mark V phòng không thay chỗ một dàn ống phóng ngư lôi. Nhóm thứ hai có pháo 4 inch trên các bệ góc cao, và được trang bị để hoạt động như những tàu rải mìn; chúng có thể được nhận diện bởi phần đuôi phẳng kiểu "đuôi hải ly" nơi mìn được thả. Khi mang theo mìn, chúng phải tháo dỡ tháp pháo "Y", các ống phóng ngư lôi và mìn sâu. Vũ khí phòng không được thiết kế gồm một dàn QF 2-pounder "pom pom" bốn nòng và hai khẩu đội súng máy Vickers 0,5 inch phòng không. Kiểu sau này tỏ ra đã lạc hậu, và được thay thế bằng pháo Oerlikon 20 mm khi đã sẵn có, với tổng cộng sáu khẩu nòng đơn.

Lớp P

Lớp P là sự lặp lại của lớp O, trang bị toàn bộ bằng pháo 4 inch trên bệ góc cao với một thiết kế tấm chắn mới cao, nên không đòi hỏi các con tàu phải tháo dỡ ống phóng ngư lôi để bổ sung vũ khí phòng không.